Người hiện đại nhận biết thời gian bằng điện thoại hoặc đồng hồ. Chúng vừa nhỏ gọn lại vô cùng tiện ích. Nhưng ở thời kỳ cổ đại khi khoa học chưa được phát triển, làm gì có điện thoại hay đồng hồ. Vậy người cổ đại làm thế nào để có thể nhận biết được thời gian? Hãy cùng đồng hồ H2 tham khảo trong bài viết sau nhé!
Cách người xưa xem giờ – Thời thần của thời cổ đại
Ở thời cổ đại, người ta tính thời gian bằng 12 thời thần. Với cách tính bằng thời thần này, chia một ngày thành 12 thời, dùng 12 địa chỉ (chỉ 12 thần) để đếm giờ, vì thế gọi là thời thần.
Thời thần: mỗi một thời thần kéo dài 2 giờ đồng hồ. Từ 11 giờ đêm hôm trước tới 1 giờ sáng hôm sau gọi là “giờ Tý”, từ 1 giờ tới 3 giờ sáng gọi là “giờ Sửu”. 3 giờ tới 5 giờ sáng là “giờ Dần”. 5 giờ tới 7 giờ sáng là “giờ Mão”. 7 giờ tới 9h sáng gọi là “giờ Thìn”. Từ 9 giờ sáng tới 11 giờ sáng là giờ “Tỵ”. 11 giờ sáng tới 1 giờ chiều gọi là “giờ Ngọ”. 13 giờ tới 15 giờ gọi là “giờ Mùi”. 15 giờ tới 17 giờ gọi là “giờ Thân”. 17 giờ tới 19 giờ là “giờ Dậu”. 19 giờ tới 21 giờ là “giờ Tuất”. 21 tới 23 giờ gọi là “giờ Hợi”.
Thật ra thì tên gọi “tiểu thời” (một giờ đồng hồ) cũng là từ “thời thần” mà ra. Bởi vì “tiểu thời” bằng một nửa của thời thần nên gọi là tiểu thời.
Canh điểm: bắt đầu từ giờ Tuất là 7 giờ tối và kết thúc vào 5 giờ sáng – giờ Dần. Tổng cộng bao gồm 5 thời thần, người xưa gọi là “canh”. Vì thế, mỗi đêm được chia làm 5 canh. Do thời gian mỗi canh là quá dài, 2 tiếng mới báo hết 1 canh, khoảng cách này hơi dài. Vì thế mà người xưa lại chia “canh” thành 5 “điểm”. Một canh là 2 tiểu thời, 1 “điểm”, cũng tức là hai mươi tư phút.
Công cụ tính thời gian của người cổ đại
Trong thời kỳ cổ đại, để thích ứng được với nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Người ta đã phát minh ra nhiều công cụ để tính giờ. Ví dụ như: khuê biểu (dụng cụ đo bóng nắng), nhật quỹ (đồng hồ mặt trời), lâu khắc (đồng hồ nước)…
Khuê biểu (dụng cụ đo bóng nắng)
Nó được tạo thành từ một thước đồng được nằm ngang – “khuê” cùng 1 thanh đồng thẳng đứng – “biểu”. Được đặt vuông góc với “khuê”, dùng để đo độ dài của bóng mặt trời. Như thế, không những có thể đoán được thời gian, mà còn có thể dựa theo độ dài của bóng nắng mặt trời buổi sáng để có thể nhận biết được khí tiết bốn mùa.
Nhật quỹ (đồng hồ mặt trời)
Nhật quỹ, có thể gọi là “nhật quy”. Đây là dụng cụ thông qua việc quan sát bóng nắng mặt trời để có thể định ra thời gian. Nó được tạo thành bởi 1 chiếc kim quỹ và đĩa bàn. Trên đĩa sẽ khắc 24 khắc đều nhau, kim quỹ được đặt vuông góc vào chính giữa đĩa bàn. Căn cứ theo bóng kim của kim quỹ chỉ vào các khắc, thì có thể nhận biết được thời gian.
Lâu khắc (đồng hồ nước)
Đồng hồ nước chính là công cụ dựa theo lượng nước nhiều hay ít để có thể phán đoán thời gian. Nếu như 2 dụng cụ đo thời gian trên phụ thuộc vào thời tiết thì lâu khắc có thể đo thời gian được trong mọi thời tiết. Vì thế, nó có thể bổ sung cho khiếm khuyết của nhật quỹ. Đây chính là dụng cụ đo thời gian được người Trung Quốc thời cổ xưa rất coi trọng.
Lâu khắc được chia thành 2 bộ phận là bầu nhỏ nước cùng bầu hứng nước. Bầu nhỏ nước chia từ 2 tới 4 tầng, mỗi tầng đều có những lỗ nhỏ, có thể nhỏ nước, nước nhỏ cuối cùng chảy vào bầu hứng nước. Trong bầu hứng nước có mũi tên thẳng đứng, trên mũi tên sẽ có 100 khắc. Mực nước từ từ dâng lên, sẽ hiện ra con số khắc để hiển thị thời gian.
Một ngày bao gồm 24 tiếng đồng hồ chia làm 100 khắc. Tương đương với 1440 phút. Vậy thì mỗi khắc sẽ tương ứng với 14.4 phút hiện nay.
Ban đêm gọi là “canh”, ban ngày gọi là “chung”
Đối với cách tính thời gian cho ngày và đêm thì người cổ đại có cách gọi khác nhau. Ban ngày gọi là “chung” còn bên đêm sẽ gọi là “canh” hoặc “cổ”. Về điểm này, chúng ta vẫn giữ lại “chung lâu” (gác chuông), “cổ lâu” (tháp trống) của người cổ đại nên có thể thấy rõ.
ở thời kỳ cổ đại, trong mỗi thành trần đều có gác chuông, tháp trống, mỗi buổi sáng phải gõ chuông để báo giờ. Vì thế, ban ngày hay gọi là “điểm chung”. Còn buổi tối người đi tuần đêm sẽ gõ mõ, dựa và số điểm để báo giờ. Vì thế, thời gian lúc bên đêm được gọi là “canh”. Có địa phương sử dụng cách gõ trống để báo giờ, vì thế, thời gian ban đêm còn được gọi là “cổ”. Cái gọi là “mấy canh” hay “mấy cổ” cũng chính là ý nghĩa này. Chúng ta hay nói “thần chung mộ cổ” (sáng chuông tối trống) chính là bắt nguồn từ đây.
“Nửa đêm canh 3” là mấy giờ?
Bạn hay nghe câu “nửa đêm canh 3” thế bạn có biết đấy là mấy giờ không? Người cổ đại ban ngày có thể dựa vào mặt trời, nhật quỹ,… để ước lượng thời gian. Nhưng tới tối lại không biết được thời gian thế nào. Vậy là xuất hiện canh phu (người báo canh) để chuyên báo giờ.
Giờ Tuất là bắt đầu cho buổi tối, còn gọi là canh một hay khởi canh. Giờ Hợi là canh hai, giờ Tý là canh 3, giờ Sửu là canh 4 và giờ Dần là canh 5. Những người có kinh nghiệm sống ở nông thôn, thường hay nói rằng canh 5 thức giấc, nghĩa là chỉ rạng sáng lúc 3 giờ tới 5 giờ. Còn nửa đêm canh 3 là chỉ giữa đêm từ 11h đêm tới 1 giờ sáng.
Một tuần trà, một tuần hương là thời gian bao lâu?
Trong các tiểu thuyết võ hiệp, các phim cổ trang, kịch cổ trang Trung Quốc thường dùng một số từ để biểu thị một khoảng thời gian ngắn như: “một tuần hương”, “một tuần trà”,… Vậy bạn có biết những từ này chỉ thời gian là bao lâu không?
Cái gọi là “một tuần trà” có nghĩa là thời gian để uống hết 1 tách trà, ước tính vào khoảng từ 10 tới 15 phút hiện nay. Đương nhiên thì đây không phải là cách tính toán hoàn toàn chính xác. Còn một tuần hương thì đại khái nó tương đương với 1 nửa thời thần nghĩa là khoảng 1 giờ đồng hồ.
Khái niệm 1 tuần hương của người xưa có nguồn gốc từ việc ngồi thiền của các tăng nhân. Các tăng nhân sẽ dựa vào thời gian đốt hương để tính thời gian. Hơn nữa, trước kia tiêu chuẩn của những nén hương được chế tạo bằng tay là phải cháy hết trong vòng đúng nửa thời thần. Vì thế mà một tuần hương có nghĩa là một tiếng đồng hồ.
Cùng tham khảo một vài dòng sản phẩm tại H2
Đồng hồ treo tường
Đồng hồ để bàn
Đồng hồ tủ