Bài 17. Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ sau ngày 2-9-1945

I. Tình hình nước ta sau Cách mạng tháng Tám năm 1945

– Những khó khăn

+ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời đã phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách. Ở miền Bắc (từ vĩ tuyến 16 trở ra), gần 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc kéo vào nước ta theo sau là các đảng phái tay sai như Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng chí hội (Việt Cách) hòng giành lại chính quyền. Ở miền Nam (từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam), quân Anh kéo vào, dọn đường cho Pháp trở lại xâm lược nước ta. Lợi dụng tình hình, bọn phản động ngóc đầu dậy làm tay sai cho Pháp chống phá cách mạng. Trên cả nước còn 6 vạn quân Nhật chờ giải giáp, theo lệnh Anh chống cách mạng.

+ Chính quyền cách mạng vừa thành lập, chưa được củng cố, lực lượng vũ trang non yếu. Nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 chưa khắc phục được cộng thêm nạn lụt lớn làm vỡ đê 9 tỉnh Bắc Bộ; hạn hán kéo dài khiến cho nửa diện tích ruộng đất không thể canh tác. Cơ sở công nghiệp chưa phục hồi, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, đời sống nhân dân nhiều khó khăn.

+ Ngân sách Nhà nước trống rỗng, tiền mất giá của Trung Hoa Dân Quốc tung ra thị trường, làm tài chính nước ta rối loạn. Hơn 90% dân số không biết chữ.

– Bên cạnh những khó khăn, đất nước cũng có những thuận lợi cơ bản

+ Nhân dân đã giành quyền làm chủ, được hưởng quyền lợi do chính quyền cách mạng mang lại nên phấn khởi và gắn bó với chế độ. Cách mạng nước ta có Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng suốt lãnh đạo.

+ Hệ thống XHCN đang hình thành, phong trào cách mạng thế giới phát triển.

+ Phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ phát triển ở nhiều nước tư bản.

II. Bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính

1. Xây dựng chính quyền cách mạng

– Ngày 6/01/1946, hơn 90% cử tri trong cả nước đi bỏ phiếu bầu Quốc hội và đã bầu ra 333 đại biểu.

– Ngày 2/03/1946, Quốc hội thông qua danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, lập ra Ban dự thảo Hiến pháp.

Rất hay:  Tổng hợp mẫu thiệp chúc mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20/11

– Ngày 9/11/194, bản Hiến pháp đầu tiên được ban hành.

– Việt Nam giải phóng quân (thành lập tháng 5/1945) đổi thành Vệ quốc đoàn (9/1945), rồi Quân đội quốc gia Việt Nam (22/5/1946). Đến cuối năm 1945, lực lương dân quân tự vệ tăng lên hàng chục vạn người.

2. Giải quyết nạn đói

– Chính phủ quyên góp, điều hòa thóc gạo giữa các địa phương trong cả nước, nghiêm trị những kẻ đầu cơ tích trữ. Hồ Chủ Tịch kêu gọi “nhường cơm sẻ áo”, lập “ Hũ gạo cứu đói”, tổ chức “Ngày đồng tâm”…không dùng lương thực để nấu rượu.

– Tăng gia sản xuất “Tấc đất tấc vàng”, “Không một tấc đất bỏ hoang”.

– Chính quyền cách mạng bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý; giảm tô, thuế ruộng đất 25%, chia lại ruộng đất công.

3. Giải quyết nạn dốt

Ngày 8/9/1945, Hồ Chủ Tịch ký sắc lệnh lập Nha Bình dân học vụ, kêu gọi nhân dân xóa nạn mù chữ. Từ tháng 9/1945 đến tháng 9/1946, trên toàn quốc có gần 76 nghìn lớp học, xóa mù chữ cho hơn 2,5 triệu người. Trường học các cấp phổ thông và đại học sớm khai giảng, nội dung và phương pháp giáo dục được đổi mới theo tinh thần dân tộc dân chủ.

4. Giải quyết khó khăn về tài chính

– Chính phủ kêu gọi tinh thần tự nguyện đóng góp của nhân dân cả nước qua “Quỹ độc lập” và “Tuần lễ vàng”, thu được 370 kg vàng, 20 triệu đồng vào “Quỹ độc lập”, 40 triệu đồng vào “Quỹ đảm phụ quốc phòng”.

– Ngày 23/11/1946, Quốc hội cho lưu hành tiền Việt Nam trong cả nước.

III. Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng

1. Kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược ở Nam Bộ

– Ngay sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, chính phủ Pháp thành lập đạo quân viễn chinh do tướng Lơcơléc chỉ huy, cử Đácgiăngliơ làm Cao Ủy Đông Dương để tái chiếm Đông Dương.

– Ngày 2/09/1945, nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn tổ chức mít tinh chào mừng “Ngày Độc lập”, Pháp xả súng vào đám đông làm nhiều người chết và bị thương.

– Ngày 6/9/1945, quân Anh vào giải giáp quân Nhật, đến Sài gòn, theo sau là quân Pháp, yêu cầu ta giải tán lực lượng vũ trang, thả hết tù binh Pháp

Rất hay:  Lý do miễn nhiệm chức vụ Phó Thủ tướng với các ông Phạm Bình Minh, Vũ Đức Đam

– Đêm 22 rạng sáng 23/09/1945, được sự giúp đỡ của quân Anh, Pháp đánh úp trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phố Sài Gòn, xâm lược nước ta lần thứ hai.

– Quân dân Nam Bộ nhất tề đứng lên chiến đấu chống quân xâm lược, đột nhập sân bay Tân Sơn Nhất, đốt cháy tàu Pháp, đánh kho tàng, phá nhà giam. Ngày 5/10/1945, sau khi có thêm viện binh, Pháp phá vòng vây Sài Gòn – Chợ Lớn, mở rộng đánh chiếm Nam Bộ và Nam Trung Bộ.

– Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch lãnh đạo cả nước chi viện cho Nam Bộ và Nam Trung bộ kháng chiến, các “đoàn quân Nam tiến” sát cánh cùng nhân dân Nam Trung Bộ chiến đấu; tổ chức quyên góp giúp nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ kháng chiến.

2. Đấu tranh với Trung Hoa Dân Quốc và bọn phản cách mạng ở miền Bắc

– Để tránh đối phó với nhiều kẻ thù cùng lúc, Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch chủ trương tạm thời hòa hoãn, tránh xung đột với quân Trung Hoa Dân Quốc.

– Ngày 2/3/1946, tại kì họp đầu tiên, Quốc hội khóa I đồng ý nhường cho Việt Quốc, Việt cách 70 ghế trong Quốc hội, 4 ghế Bộ trưởng trong Chính phủ liên hiệp, cho Nguyễn Hải Thần (lãnh tụ Việt Cách) giữ chức Phó Chủ tịch nước. Cung cấp một phần lương thực thực phẩm, phương tiện giao thông vận tải, nhận tiêu tiền Trung Quốc.

– Để giảm bớt sức ép của kẻ thù, tránh hiểu lầm, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố “tự giải tán” (tháng 11/1945), thật ra là tạm thời rút vào hoạt động bí mật, tiếp tục lãnh đạo chính quyền cách mạng.

– Đối với các tổ chức phản cách mạng, tay sai, chính quyền dựa vào quần chúng, kiên quyết vạch trần âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại của chúng, nếu có đủ bằng chứng thì trừng trị theo pháp luật; ban hành một số sắc lệnh trấn áp bọn phản cách mạng.

– Những biện pháp trên đã hạn chế mức thấp nhất các hoạt động chống phá của Trung Hoa Dân Quốc và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của chúng.

Rất hay:  Cách chữa sẹo lồi: Những điều cần biết

3. Hòa hoãn với Pháp nhằm đẩy quân Trung Hoa Dân Quốc ra khỏi nước ta

– Sau khi chiếm Nam Bộ, Pháp thực hiện kế hoạch tiến quân ra Bắc; ngày 28/2/1946, Pháp và Trung Hoa Dân Quốc ký Hiệp ước Hoa – Pháp; Pháp trả lại một số quyền lợi về kinh tế, chính trị cho Trung Hoa Dân Quốc và cho Trung Quốc vận chuyển hàng hóa qua cảng Hải Phòng miễn thuế. Đổi lại, cho Pháp đưa quân ra Bắc giải giáp quân đội Nhật.

– Hiệp ước Hoa – Pháp đã đặt nhân dân ta trước sự lựa chọn hoặc cầm súng chiến đấu chống thực dân Pháp; hoặc hòa hoãn, nhân nhượng Pháp để tránh tình trạng phải đối phó một lúc với nhiều kẻ thù.

– Đảng quyết định chọn con đường “hòa để tiến”với Pháp, ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946.

– Nội dung Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946:

+ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do, có Chính phủ, Nghị viện, quân đội và tài chính riêng, là thành viên của Liên bang Đông Dương nằm trong khối Liên Hiệp Pháp.

+ Chính phủ Việt Nam thỏa thuận cho 15.000 quân Pháp ra miền Bắc thay quân Trung Hoa Dân Quốc giải giáp quân Nhật và số quân này sẽ rút dần trong thời hạn 5 năm.

+ Hai bên ngừng xung đột ở miền Nam, tạo thuận lợi đi đến đàm phán chính thức.

– Kí hiệp định sơ bộ, ta tránh được việc phải đương đầu cùng lúc với nhiều kẻ thù, đẩy được 20 vạn quân Trung Hoa Dân Quốc và tay sai ra khỏi nước ta. Có thêm thời gian hòa bình để củng cố, chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến lâu dài chống Pháp.

– Do thực dân Pháp liên tiếp vi phạm Hiệp định, gây xung đột ở Nam Bộ, tìm cách trì hoãn và phá hoại các cuộc đàm phán, làm cho cuộc đàm phán ở Phông-ten-nơ-blô giữa hai Chính phủ bị thất bại khiến nguy cơ bùng nổ chiến tranh đến gần.

– Hồ Chủ tịch ký với Pháp Tạm ước 14/9/1946, nhân nhượng cho Pháp một số quyền lợi kinh tế, văn hóa, tạo điều kiện cho ta có thêm thời gian xây dựng, củng cố lực lượng, chuẩn bị vào cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp lâu dài.