Lễ dạm là khi hai người đã yêu thương nhau, chàng trai về thưa với cha mẹ nhờ người quen thân làm mai mối đến nhà cô gái hỏi để xem bên nhà gái có ưng thuận hay không. Nếu có kết quả như ý thì làm lễ chạm ngõ hay xem mặt (coi mắt). Lễ này gộp cả các công việc của lễ Nạp thái và Vấn danh.
Lễ ăn hỏi (đính hôn ): Đây là một lễ quan trọng, có nơi coi quan trọng hơn là lễ cưới vì sau lễ này, trai gái đã chính thức đính hôn nhau. Nhà trai mang đến 4 mâm lễ vật: trầu cau, rượu trà, đùi heo cùng bánh trái. Còn các mâm khác nữa thì tùy nhà trai. Nhưng một điều quan trọng cần lưu ý là tất cả các loại lễ vật đều phải là số chẵn mới tốt., số lượng mâm càng nhiều thì biểu hiện sự khá giả của nhà trai. Thường là 8, 10, 12 mâm. Còn nữ trang cho cô dâu nhiều hay ít tùy thuộc vào khả năng kinh tế của nhà trai, nhưng đôi bông tai bắt buộc phải có và mẹ chồng là người trực tiếp đeo vào tai cô dâu trong ngày đính hôn.
Lễ cưới: Thông thường thì ngày trước đám cưới, bạn bè họ hàng sẽ qua nhà cô dâu. Cô dâu thì nên có bạn bè qua nhà vào buổi tối, coi như điều tốt lành, nghĩa là có bạn “hộ giá”. Vậy là cô dâu mới sẽ không thấy cô đơn khi về nhà chồng sau này. Còn đối với chú rễ, mang liễn đến dán cửa nhà cô dâu. Khi dán xong thì về, gặp bậc cha chú chỉ cuối đầu chào, tuyệt đối không được nói gì. Tối hôm đó, nhà gái sẽ chọn sẵn giờ lành để chải đầu cho cô dâu. Thường người ta sẽ tìm một người trong họ hàng có phước để chải đầu cho cô dâu. Không thì mẹ cô dâu hoặc tự cô dâu chải cũng được (xem như mình sẽ tự quyết định cuộc sống của mình, không cần mượn phước lộc của ai ).Theo tục lệ là chải 3 cái và nói: “1 chải tới đuôi (nghĩa là tình duyên không đứt đọan), 2 chải răng long đầu bạc, 3 chải con cháu đầy nhà “, sau khi chải đầu xong, cô dâu sẽ được ăn bánh trôi nước (ở trong là nhân đường) với ý nghĩa là điền viên và mật ngọt. Sau khi ăn xong thì cô buộc phải vô phòng ngủ, không được ra phòng khách nữa. Lễ rước dâu, đến nhà gái thì chú rễ và ông mai vào trước. Tới cổng 1 bé trai hoặc gái là em hoặc cháu cô dâu bưng mâm có 2 ly nước trà mời chú rễ. Chú rễ uống nước cám ơn và trao tiền lì xì (chuẩn bị sẵn để trong bao giấy màu đỏ). Người Hoa có tục lệ là nhà gái sẽ chặn cửa không cho nhà trai vào, nhà trai phải phá cửa (dùng nhiều biện pháp như đưa lì xì, hoặc là chịu một số hình phạt của bạn cô dâu đưa ra hoặc là nếu phá được cửa thì vào thẳng luôn), chú rễ mới được vô rước dâu.
Lễ cưới nhà trai cũng mang đến như lể hỏi, nhưng phải có đầu heo và thịt đùi heo. Lễ hỏi là đùi heo trước, lễ cưới là đùi heo sau. Mà đùi phải còn dính liền đuôi heo. Đuôi phải còn 1 túm lông ở chót đuôi. Vì người Hoa quan niệm phải có tiền có hậu.
Sau khi phá cửa xong thì chú rễ sẽ được lên tận phòng cô dâu để nhận cô dâu từ tay của ba cô dâu. Trước đó, ba cô dâu sẽ đóng cái lúp đầu cô dâu lại, khi chú rễ lên thì tự tay chú rễ sẽ mở lúp ra. Xong rồi thì chú rễ rước xuống để lạy tổ tiên và rót trà cho mọi người trong nhà và họ hàng. Thứ tự là từ lớn đến nhỏ và từ bên nội đến bên ngọai.
Sau khi lạy tổ tiên và rót trà bên nhà gái xong thì chú rễ sẽ rước cô dâu về nhà trai. Theo phong tục người Hoa thì lúc cô dâu bước ra cổng nhà, sẽ có 1 người lớn tuổi cầm dù màu đỏ che nắng cho cô dâu, ý là không để cô dâu bị thần mặt trời bắt mất. Ngoài ra sẽ có thêm 1 đến 2 người bạn xách vali áo cưới và quần áo giúp cô dâu. Người cầm dù, cầm vali chỉ được cầm bằng 1 tay và không được đổi tay (không đổi chồng). Lúc cô dâu bước ra cổng cũng không được quay đầu lại nhìn, mà phải đi thẳng. Còn ba mẹ cô dâu sẽ đứng ở cổng nhà nhìn theo và sẽ không đi theo qua nhà chồng. Cũng như lúc rước dâu, ba má chú rễ cũng không đi theo. Trước khi động phòng, cô dâu và chú rễ cùng uống rượu giao bôi và dắt tay nhau bước qua 1 bếp lửa hàm ý sẽ vượt qua khó khăn thử thách. Trong phòng, cô dâu và chú rễ cùng ăn chung 1 chén chè, quan niệm là được như ý muốn. Chè có màu đỏ, vị ngọt, mặn cay hàm ý cùng chia ngọt sẻ ngọt bùi, son sắt thuỷ chung.Tham khảo thêm
Nghi thức cưới – hỏi của người Hoa ở Bạc Liêu – Cà Mau
Người Việt gốc Hoa ở Cà Mau- Bạc Liêu luôn có ý thức giữ gìn truyền thống văn hóa cội nguồn, nhất là việc gìn giữ những phong tục lễ nghi, trong đó có nghi thức cưới hỏi.
Lễ hỏi, cũng coi như là lễ đính hôn, khi đoàn người của đàng trai đến thì không có chú rể đi cùng. Một số người ở Cà Mau nhận thấy trong buổi lễ quan trọng này mà lại thiếu nhân vật trung tâm (chú rể), chỉ có một mình cô dâu thì đơn điệu và lạnh lẽo nên đề xuất phải có sự hiện diện của chú rể. Ý kiến trên được nhiều người ủng hộ nên gần đây ở Cà Mau trong lễ đính hôn đã có mặt chú rể bên cạnh cô dâu như trong lễ hỏi của người Việt. Trong nghi lễ đính hôn nhà trai bắt buộc phải mang đến bốn mâm lễ vật gồm: trầu cau, rượu, trà, đùi heo cùng bánh trái. Các mâm khác nữa thì tùy đàng trai nhưng phải là số chẵn, số lượng mâm càng nhiều thể hiện sự khá giả của nhà trai. Thường thường là 8- 10-12 mâm. Riêng mâm quần áo cho cô dâu thì không tính vào trong số đó. Còn nữ trang cho cô dâu thì tùy thuộc vào khả năng kinh tế của nhà trai, nhưng đôi bông tai bắt buộc phải có và mẹ chồng là người trực tiếp đeo vào tai cho cô dâu .
Trong lễ này, đàng trai còn mang đến trao cho đàng gái số tiền “nợ”. Số tiền này luôn là bốn con số bốn như : 4.444.000 đồng hay 44.440.000 đồng. Thường thì đàng gái lấy hai con số giữa (như lấy 440.000 đồng hay 4.400.000 đồng ) còn thì hoàn lại cho đàng nhà trai (lúc trả lễ cũng công khai ngay sau đó), chưa bao giờ có trường hợp nhà gái lấy nhiều hơn hai con số giữa, vì người Hoa quan niệm con số 44 là con số đẹp, là sự vuông tròn, bền vững và việc trả lại con số 4 đầu và số 4 cuối là có “tiền”, có “hậu”.
Trước lễ cưới khoảng 10 ngày, đàng gái cử người qua nhà trai cung cấp danh sách tên, thứ tự vai vế của các vị lớn tuổi trong gia tộc để bên đàng trai biết, tiện việc xưng hô, giao tiếp và những vấn đề liên quan đến nghi lễ. Trước lễ cưới một ngày, chú rể mang liễn đến dán ở cửa nhà cô dâu. Khi dán xong thì về, gặp bậc cha chú chỉ cúi đầu chào, tuyệt đối không được nói gì. Tuy nhiên thời gian gần đây tục lệ này cũng không còn khắt khe như nguyên thủy. Liễn dán này gồm một tấm ngang (dán trên cửa nhà), viết chữ Hán, nội dung (ví dụ) như: Loan Phụng Hòa Minh, Thiên Trác Tri Hiệp (ý nghĩa: Nam nữ được Trời ban duyên, sắp đặt, đẹp đôi). Hai tấm dán cột đối xứng có nội dung, ví dụ như: “Vĩnh kết đồng tâm sơn hải cố” và Bách niên hảo hiệp sắc như cầm”… Tại nhà chú rể cũng dán ba tấm liễn tương tự, nhưng nội dung có khác.
Khi rước dâu, đến nhà gái thì chú rể và ông mai vào trước. Tới cổng, một bé trai (hoặc gái) là em hoặc cháu cô dâu, bưng mâm có hai ly nước trà mời chú rể. Chú rể uống nước, cám ơn và trao tiền lì xì (thường đã chuẩn bị sẵn trong bao giấy màu đỏ). Mâm lễ cưới nhà trai mang đến cũng tương tự như kỳ lễ hỏi nhưng khác ở mâm thịt đùi heo. Lễ hỏi thì luôn luôn là đùi heo trước nhưng lễ cưới phải là đùi heo sau. Mà đùi phải còn dính liền đuôi heo. Đuôi phải còn một túm lông ở chót đuôi. Vì người Hoa quan niệm phải có tiền có hậu. Người nhà trai cũng mang theo một bao thơ đựng tiền trao tận tay cho mẹ cô dâu với hàm ý biết ơn và trả công sinh đẻ, công giặt tã lót vì vậy mà có kèm theo một tấm vải may quần tặng cho bà mẹ. Nhà gái cũng đáp từ, gởi gắm đôi lời mong cha mẹ đàng trai, thương yêu, bảo ban cô dâu còn trẻ người, non dạ.
Khi cô dâu chú rể về tới cổng nhà trai thì cũng có một em nhỏ ăn mặc chỉnh tề bưng nước mời, hàm ý chúc mừng hạnh phúc. Cô dâu cũng tươi cười nâng ly, cảm ơn rồi lấy tiền ra “lì xì”, nếu chưa có sự chuẩn bị thì chú rể có thể làm thay cô dâu. Các nghi thức tiếp theo thì ngày nay nói chung cũng giống như trong lễ cưới của người Việt. Chú rể và cô dâu cũng có thể mặc côm-lê, váy cưới Tây hoặc trang phục truyền thống. Riêng trong buổi lễ đính hôn, cô dâu duyên dáng trong bộ áo dài Thượng Hải truyền thống- đây là nghi thức bắt buộc.
Nhìn chung, trong nghi thức cưới hỏi cũng như nghi lễ tôn giáo, tâm linh, trong buôn bán, hoạt động xã hội… người Hoa luôn luôn có quan niệm, phải coi trọng và giữ gìn chữ tín, làm việc gì thì cũng phải có hậu- như một luân lý đạo đức – để lại phúc đức cho đời sau.
10 phong tục lạ về cưới hỏi của người Trung Quốc
Đất nước Trung Quốc rộng lớn với hàng trăm dân tộc. Mỗi dân tộc lại có những nét văn hóa độc đáo, trong đó có điều lạ lùng về cưới hỏi, hôn nhân. Mời bạn cùng khám phá.
Lễ chạm ngõ (Lễ dạm ngõ)Nghi lễ đám cưới người Việt Phong tục trải giường cưới cho đôi uyên ương Phong tục cưới cổ truyền của người ViệtChọn đội bê tráp cho lễ ăn hỏLễ vật cưới hỏi Việt NamLễ vật cưới hỏi cần chuẩn bị những gì (st)